Đặc điểm dịch tễ là gì? Các công bố khoa học về Đặc điểm dịch tễ
Đặc điểm dịch tễ là các yếu tố và thông tin về sự phân bố, tình hình và nhân tố liên quan đến một bệnh hoặc dịch bệnh trong một cộng đồng hoặc dân số nhất định....
Đặc điểm dịch tễ là các yếu tố và thông tin về sự phân bố, tình hình và nhân tố liên quan đến một bệnh hoặc dịch bệnh trong một cộng đồng hoặc dân số nhất định. Đặc điểm dịch tễ bao gồm các chỉ số và thống kê về số lượng người bị bệnh, tỷ lệ mắc bệnh, đặc điểm nhóm người mắc bệnh (như tuổi, giới tính, nhóm dân tộc), đặc điểm môi trường (như vùng địa lý, điều kiện sống, mức độ tiếp xúc với chất gây bệnh), và các yếu tố nguy cơ (như thuốc lá, thức ăn không an toàn, tiếp xúc với động vật mang bệnh). Hiểu và phân tích đặc điểm dịch tễ của một bệnh rất quan trọng để xác định nguyên nhân và tìm ra các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát bệnh.
Đặc điểm dịch tễ bao gồm các yếu tố sau:
1. Phân bố bệnh: Đặc điểm này mô tả cách mà bệnh xuất hiện và phân bố trong cộng đồng hoặc dân số. Nó liên quan đến vị trí địa lý, mức độ lây lan và tỷ lệ mắc bệnh ở các khu vực khác nhau. Các biểu đồ phân bố như bản đồ nhiễm bệnh hay biểu đồ tuyến tính có thể được sử dụng để hình dung phân bố bệnh.
2. Tần suất bệnh: Đặc điểm này thể hiện sự phổ biến của bệnh trong dân số. Một số chỉ số phổ biến bao gồm tỷ lệ mắc bệnh (số người mắc bệnh trong một nhóm dân số xác định), tỷ lệ mắc bệnh tính trên 100.000 người, và số lượng ca mắc bệnh hàng năm.
3. Nhóm người mắc bệnh: Đặc điểm này nghiên cứu về đặc điểm của những người bị bệnh, như tuổi, giới tính, nhóm dân tộc, và yếu tố kinh tế xã hội. Việc phân tích nhóm người mắc bệnh có thể giúp nhận ra những yếu tố nguy cơ và những nhóm dân số đặc biệt cần quan tâm.
4. Yếu tố gây bệnh: Đặc điểm này nghiên cứu về các yếu tố gây bệnh và cách chúng tác động đến sự lây lan của bệnh. Yếu tố gây bệnh có thể bao gồm vi khuẩn, virus, nấm, vi sinh vật, tác động môi trường, tiếp xúc với chất gây bệnh, và di truyền.
5. Yếu tố nguy cơ: Đặc điểm này nghiên cứu về các yếu tố có thể tăng nguy cơ mắc bệnh trong cộng đồng hoặc dân số. Các yếu tố nguy cơ có thể gồm hút thuốc lá, tiếp xúc với chất gây ung thư, tiếp xúc với động vật mang bệnh, sống trong môi trường ô nhiễm, và không đảm bảo vệ sinh cá nhân và an toàn thực phẩm.
Thông qua việc nghiên cứu và phân tích đặc điểm dịch tễ, ta có thể hiểu rõ hơn về sự lây lan và ảnh hưởng của một bệnh, từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát và điều trị hiệu quả.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đặc điểm dịch tễ":
MSCs (Tế bào gốc trung mô) là các tế bào mô đệm không thuộc hệ huyết tương có khả năng phân hóa thành và góp phần vào việc tái tạo các mô trung mô như xương, sụn, cơ, dây chằng, gân và mỡ. MSCs rất hiếm trong tủy xương, chiếm khoảng 1 trong mỗi 10.000 tế bào có nhân. Mặc dù không phải là vĩnh cửu, chúng có khả năng mở rộng rất nhiều trong nuôi cấy mà vẫn duy trì khả năng phát triển và khả năng phát sinh nhiều dòng. MSCs được xác định bằng cách biểu hiện nhiều phân tử, bao gồm CD105 (SH2) và CD73 (SH3/4) và không dương tính với các dấu ấn huyết tương CD34, CD45 và CD14. Các đặc tính của MSCs khiến các tế bào này trở thành ứng cử viên lý tưởng cho kỹ thuật mô. Đã có nghiên cứu cho thấy rằng MSCs, khi được cấy ghép toàn thân, có khả năng di chuyển đến các vị trí tổn thương ở động vật, cho thấy rằng MSCs có khả năng di chuyển. Tuy nhiên, các cơ chế liên quan đến sự di chuyển của các tế bào này vẫn chưa được làm rõ. Các thụ thể chemokine và các ligand cũng như các phân tử bám dính đóng vai trò quan trọng trong việc định cư của bạch cầu ở tissu đặc hiệu và cũng đã được liên quan đến việc vận chuyển các tiền thân tế bào huyết tương vào và xuyên qua mô. Một số nghiên cứu đã báo cáo về sự biểu hiện chức năng của các thụ thể chemokine và các phân tử bám dính khác nhau trên các tế bào MSC của con người. Khai thác tiềm năng di chuyển của MSCs bằng cách điều chỉnh các tương tác giữa chemokine và thụ thể chemokine của chúng có thể là một cách mạnh mẽ để tăng khả năng sửa chữa các rối loạn di truyền của các mô trung mô hoặc tạo điều kiện cho việc sửa chữa mô in vivo. Bài đánh giá hiện tại mô tả những gì đã biết về MSCs và khả năng di chuyển của chúng đến các mô cùng với các cơ chế phân tử liên quan như thụ thể chemokine và các phân tử bám dính.
Thông tin về các mâu thuẫn lợi ích tiềm tàng được tìm thấy ở cuối bài viết này.
Ung thư vòm họng (NPC) có một nguyên nhân đặc biệt và phức tạp mà chưa được hiểu hoàn toàn. Mặc dù NPC hiếm gặp ở hầu hết các quần thể, nhưng đây là một loại ung thư hàng đầu ở một vài quần thể được xác định rõ, bao gồm người dân bản địa của miền nam Trung Quốc, Đông Nam Á, Bắc Cực và Trung Đông/Bắc Phi. Sự phân bố chủng tộc/dân tộc và địa lý đặc biệt của NPC trên toàn thế giới cho thấy cả yếu tố môi trường và di truyền đều góp phần vào sự phát triển của nó. Bài tổng quan này nhằm tóm tắt những hiểu biết hiện tại về dịch tễ học của NPC và đề xuất các hướng nghiên cứu mới có thể giúp làm sáng tỏ nguyên nhân và cuối cùng là biện pháp phòng ngừa căn bệnh nổi bật này. Các yếu tố nguy cơ đã được xác định rõ ràng cho NPC bao gồm nồng độ kháng thể chống virus Epstein-Barr tăng cao, tiêu thụ cá muối, tiền sử gia đình có bệnh NPC và một số kiểu gen kháng nguyên bạch cầu người lớp I. Tiêu thụ các thực phẩm bảo quản khác, hút thuốc lá, và tiền sử các bệnh lý đường hô hấp mãn tính có thể liên quan đến tăng nguy cơ NPC, trong khi tiêu thụ trái cây và rau quả tươi, cùng với các kiểu gen kháng nguyên bạch cầu người khác có thể liên quan đến giảm nguy cơ. Bằng chứng cho vai trò gây bệnh của các chất hít vào, thuốc thảo dược, và các yếu tố nghề nghiệp là không nhất quán. Ngoại trừ việc thay đổi chế độ ăn uống, không có biện pháp phòng ngừa rõ ràng nào cho NPC tồn tại. Với những chỗ trống chưa được giải quyết trong việc hiểu biết về NPC, rất cần thiết có những nghiên cứu dịch tễ học phân tử quy mô lớn trên quần thể dân số để làm sáng tỏ cách mà các yếu tố môi trường, virus và di truyền tương tác trong cả phát triển và phòng ngừa căn bệnh này. (Epidemiol Ung thư Biomarkers Prev 2006;15(10):1765–77)
Ung thư dạ dày (GC) là một trong những bệnh ác tính phổ biến nhất trên toàn thế giới và là nguyên nhân dẫn đến cái chết liên quan đến ung thư đứng thứ tư. GC là một bệnh đa yếu tố, nơi các yếu tố môi trường và di truyền đều có thể ảnh hưởng đến sự xuất hiện và phát triển của nó. Tỷ lệ mắc GC tăng dần theo tuổi tác; độ tuổi trung bình khi chẩn đoán là 70 tuổi. Tuy nhiên, khoảng 10% các trường hợp ung thư dạ dày được phát hiện ở độ tuổi 45 hoặc trẻ hơn. Ung thư dạ dày khởi phát sớm là một mô hình tốt để nghiên cứu các biến đổi di truyền liên quan đến quá trình sinh ung, vì bệnh nhân trẻ ít tiếp xúc với các tác nhân gây ung thư môi trường. Sinh ung là một quá trình bệnh đa giai đoạn được xác định bởi sự phát triển tiến triển của các đột biến và biến đổi epigenetic trong biểu hiện của nhiều gen khác nhau, chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện của bệnh.
Tỷ lệ mắc huyết khối tĩnh mạch vượt quá 1 trên 1000; hàng năm, có hơn 200.000 ca mới xảy ra ở Hoa Kỳ. Trong số đó, 30% tử vong trong vòng 30 ngày; một phần năm chết đột ngột do thuyên tắc phổi. Mặc dù đã cải thiện biện pháp phòng ngừa, tỷ lệ mắc huyết khối tĩnh mạch vẫn không thay đổi kể từ năm 1980. Các yếu tố nguy cơ độc lập cho huyết khối tĩnh mạch bao gồm tuổi tác cao, giới tính nam, phẫu thuật, chấn thương, phải nằm viện hoặc ở nhà dưỡng lão, ung thư, bệnh lý thần kinh có liệt chi, catheter tĩnh mạch trung ương/ máy tạo nhịp qua tĩnh mạch, tiền sử huyết khối tĩnh mạch nông và tĩnh mạch giãn; trong số phụ nữ, các yếu tố nguy cơ bao gồm mang thai, thuốc ngừa thai và liệu pháp thay thế hormone. Khoảng 30% trường hợp sống sót phát triển huyết khối tĩnh mạch tái phát trong vòng mười năm. Các dự đoán độc lập cho sự tái phát bao gồm tuổi tác cao, béo phì, khối u ác tính và liệt chi. Khoảng 28% trường hợp phát triển hội chứng ứ trệ tĩnh mạch trong vòng 20 năm. Để giảm tỷ lệ mắc huyết khối tĩnh mạch, nâng cao tỷ lệ sống sót, và ngăn ngừa tái phát cũng như các biến chứng, bệnh nhân có những đặc điểm này nên nhận được biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Nghiên cứu này điều tra các tác động chính và tương tác của đặc điểm công việc đến sự sáng tạo của nhân viên dịch vụ tiền tuyến. Các nghiên cứu trước đây đã xem xét mối liên hệ giữa độ phức tạp công việc, một chỉ số đo lường đặc điểm công việc, và sự sáng tạo của nhân viên. Nghiên cứu này áp dụng phương pháp thành phần để nghiên cứu ảnh hưởng của từng đặc điểm công việc đến sự sáng tạo của nhân viên. Phương pháp này khắc phục một số hạn chế như dựa vào lý do động lực nội tại đơn thuần. Ngoài ra, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này trong lĩnh vực dịch vụ, trong khi các nghiên cứu trước chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực khác. Nghiên cứu kiểm tra một mô hình với 460 nhân viên trong một môi trường dịch vụ và cho thấy rằng việc xem xét các tác động của từng đặc điểm công việc có sức thuyết phục vượt xa so với độ phức tạp công việc. Hơn nữa, kết quả cho thấy các đặc điểm công việc tương tác với nhau để ảnh hưởng đến sự sáng tạo. Cuối cùng, kết quả cũng chỉ ra rằng phương pháp thành phần rất hữu ích cho các nhà quản lý trong việc ưu tiên nỗ lực. Cụ thể, kết quả chỉ ra rằng để thúc đẩy hành vi sáng tạo, các nhà quản lý dịch vụ nên xem xét việc tăng cường sự tự chủ, đa dạng, phản hồi và bản sắc công việc của nhân viên. Tuy nhiên, các tương tác giữa các đặc điểm công việc cũng cho thấy rằng để xây dựng một môi trường thúc đẩy hiệu suất sáng tạo, việc tìm kiếm sự cân bằng phù hợp giữa các đặc điểm công việc là rất quan trọng.
Virus varicella-zoster (VZV) gây ra bệnh thủy đậu (chicken pox) và thiết lập trạng thái tiềm tàng trong các hạch thần kinh, từ đó virus tái hoạt hóa để gây ra bệnh zona (herpes zoster), thường kèm theo đau thần kinh sau herpes (PHN), gây ra cơn đau thần kinh nghiêm trọng có thể kéo dài nhiều năm sau khi phát ban. Bất chấp ảnh hưởng lớn của herpes zoster và PHN đến chất lượng cuộc sống, bản chất và động học của các tương tác giữa virus và tế bào miễn dịch dẫn đến tổn thương hạch chưa được xác định. Chúng tôi đã lấy được mẫu vật hiếm gồm bảy hạch cảm giác từ ba người hiến tặng, những người đã trải qua herpes zoster từ 1 đến 4,5 tháng trước khi qua đời nhưng không chết do herpes zoster. Chúng tôi đã thực hiện nhuộm miễn dịch để điều tra vị trí nhiễm VZV và để phân loại tế bào miễn dịch trong các hạch này. Kháng nguyên VZV chủ yếu được định vị trong các tế bào thần kinh, và trong ít nhất một trường hợp, kháng nguyên này tồn tại lâu sau khi phát ban được giải quyết. Sự xâm nhập miễn dịch lớn bao gồm các tế bào T CD8+ không gây ly giải, với số lượng ít hơn các tế bào T CD4+, tế bào B, tế bào NK và đại thực bào, và không có tế bào trình diện kháng nguyên. Các tế bào thần kinh dương tính với kháng nguyên VZV không biểu hiện phức hợp tương hợp mô chính (MHC) lớp I phát hiện được, cũng như các tế bào T CD8+ không bao quanh các tế bào thần kinh bị nhiễm, cho thấy rằng các cơ chế kiểm soát miễn dịch có thể không phụ thuộc vào sự tiếp xúc trực tiếp. Đây là báo cáo đầu tiên xác định bản chất của phản ứng miễn dịch trong các hạch thần kinh sau herpes zoster và cung cấp bằng chứng cho sự tồn tại của kháng nguyên virus không liên quan đến trạng thái tiềm tàng và tình trạng viêm kéo dài sau khi phát ban được giải quyết.
Trong bối cảnh đại dịch bệnh coronavirus (COVID-19) vẫn đang tiếp diễn, vẫn chưa rõ liệu mức độ nghiêm trọng của bệnh và khoảng thời gian từ khi xuất hiện triệu chứng đến khi miễn cách ly có khác nhau giữa các ca bệnh bắt nguồn từ các ổ dịch và các ca bệnh được báo cáo ở những khu vực khác. Nghiên cứu này nhằm đánh giá các đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng liên thế hệ của các bệnh nhân COVID-19 liên quan đến các ổ dịch để cung cấp dữ liệu giá trị cho việc phòng ngừa và kiểm soát COVID-19.
Chúng tôi đã xác định nhân viên đầu tiên mắc COVID-19 tại một siêu thị và tiến hành sàng lọc các tiếp xúc gần của bệnh nhân chỉ điểm này. Các ca bệnh xác nhận được chia thành hai nhóm theo thế hệ (thế hệ đầu tiên gồm có nhân viên siêu thị [nhóm A] và thế hệ thứ hai hoặc thứ ba gồm thành viên trong gia đình hoặc bạn bè của nhân viên siêu thị [nhóm B]). Các đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của hai nhóm đã được so sánh hồi cứu.
Tổng cộng có 8437 người được sàng lọc, và 24 bệnh nhân COVID-19 đã được xác định. Bảy bệnh nhân (29.2%) không có triệu chứng; ba bệnh nhân chịu trách nhiệm cho sáu ca có triệu chứng. Khoảng thời gian từ khi xác nhận ca đầu tiên đến khi xuất hiện triệu chứng ở bệnh nhân có triệu chứng là 5–11 ngày. Biểu hiện lâm sàng của các bệnh nhân có triệu chứng khi nhập viện là không đặc hiệu. Tất cả các bệnh nhân (bao gồm bảy bệnh nhân không có triệu chứng) đều được nhập viện dựa trên các đặc trưng của chụp CT ngực cho thấy viêm phổi. Có 11 ca ở nhóm A (thế hệ đầu tiên) và 13 ca ở nhóm B (thế hệ thứ hai, 11 ca; thế hệ thứ ba, 2 ca), không có sự khác biệt đáng kể về các đặc điểm lâm sàng và dịch tễ học giữa hai nhóm, ngoại trừ giới tính, khoảng thời gian từ khi xuất hiện triệu chứng đến khi nhập viện, và bệnh nền (
Đối với các ổ dịch, việc sàng lọc toàn diện các tiếp xúc gần của bệnh nhân chỉ điểm là rất quan trọng. Cần đặc biệt chú ý đến các ca không có triệu chứng. Quản lý lâm sàng cho các bệnh nhân trong cụm bệnh tương tự như bệnh nhân COVID-19 khác.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10